This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Thứ Hai, 1 tháng 1, 2001

Bạn có nguy cơ bị thiếu máu?

nguy cơ thiếu máu

Những người có nguy cơ cao bị thiếu máu là phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ hoặc phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, không chỉ phụ nữ có nguy cơ cao bị thiếu máu, trên thực tế, những người có chế độ dinh dưỡng kém, đặc biệt là chế độ ăn thiếu sắt cũng có nguy cơ bị thiếu máu. Nếu bạn hiến máu thường xuyên, bạn cũng có thể có nguy cơ vì hiến máu thường xuyên cũng có thể ảnh hưởng tới việc sản xuất máu. Nguy cơ thiếu máu cũng cao ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đặc biệt là những trẻ sinh non hoặc đang trải qua giai đoạn tăng trưởng nhảy vọt. Nếu bạn là người ăn chay và không ăn nhiều thực phẩm chứa sắt (hoặc thay thế thịt với những thực phẩm chứa sắt) thì nguy cơ bị thiếu máu cũng tăng.

Mặc dù thiếu máu do thiếu sắt và mang thai là hai trong số những nguyên nhân lớn nhất gây thiếu máu nhẹ và trung bình, một số trường hợp thiếu máu nặng có thể có những nguyên nhân nghiêm trọng ẩn dưới. Những nguyên nhân này gồm các bệnh như thalassemia beta, thiếu máu đa bào và các bệnh mạn tính khác.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng 8,4% các mẫu máu báo hiệu bệnh beta thalassemia, một rối loạn di truyền nghiêm trọng, là nguyên nhân gây thiếu máu. Trong những trường hợp này, các xét nghiệm sàng lọc trở nên cần thiết vì bệnh mang tính di truyền và trẻ bị beta thalassemia có thể không phát triển bình thường. Do dó, mỗi phụ nữ cần sáng lọc và tư vấn bác sĩ nếu có các triệu chứng thiếu máu.

BS Thu Vân

(theo Univadis/THS)

Điều trị nhiễm vi khuẩn H.pylori ở trẻ em: Còn nhiều bất cập

Tuy nhiên, hiểu biết của phụ huynh còn chưa đầy đủ, cùng với gần đây tại một số phòng khám tư nhân, có sự cảnh báo “quá lên” của một số thầy thuốc mà vi khuẩn HP đã trở thành nỗi ám ảnh của nhiều người. Vậy HP có thực sự nguy hiểm? Khi nào cần xét nghiệm tìm HP? Khi nào thì cần điều trị và đau bụng trẻ em có nhất thiết cần tìm cho ra HP hay không?

HP là 1 xoắn khuẩn gram âm, cư trú trong dạ dày người. Có tới 50% dân số trên thế giới bị nhiễm vi khuẩn này, nhưng chỉ ở 15% số người bị nhiễm HP có thể trở thành viêm loét dạ dày, tá tràng và chỉ 1% chuyển sang ung thư dạ dày. Còn lại 85% trong số họ vẫn khỏe mạnh hoàn toàn mà không bị viêm.

Ở các nước đã phát triển như Hoa Kỳ trẻ em dưới 10 tuổi bị nhiễm HP ít hơn, tỉ lệ này là 10% ở nhóm tuổi 10- 18 tuổi và lên tới 50-60% ở người trên 60 tuổi.

Tại các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam 60- 80% trẻ em dưới 10 tuổi bị nhiễm vi khuẩn HP, do vậy việc chỉ định cho trẻ em làm các xét nghiệm phân, hơi thở, máu… chỉ để chẩn đoán nhiễm HP hay không là một sự lạm dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận là chính vì xác suất con bạn dương tính với HP là rất cao. Vậy khi nào cần xét nghiệm HP sẽ bàn ở mục sau.

Điều trị nhiễm vi khuẩn H.pylori ở trẻ emĐể xác định trẻ cần điều trị HP, phải làm các xét nghiệm rất chặt chẽ.

Những câu hỏi cần lời đáp về vi khuẩn HP

Con có bị lây HP từ cha mẹ? Vì HP lây nhiễm theo đường miệng - miệng, phân - miệng, nên các thành viên trong gia đình có thói quen ăn chung mâm, dùng chung chén đũa, bón mớm cho trẻ làm tăng khả năng bị nhiễm HP cho trẻ.

Trẻ bị đau bụng có cần đi xét nghiệm tìm vi khuẩn HP không? Có thể nói, đau bụng trẻ em là một chủ đề rất khó trong thực tiễn lâm sàng của các bác sĩ nhi. Đau bụng mạn tính ở trẻ em rất đa dạng và do nhiều nguyên nhân khác nhau và hầu hết là lành tính. Ví dụ đau bụng chức năng, đau bụng do giun, do tâm lý, do biếng ăn, rối loạn tiêu hóa, viêm dạ dày… Bạn cần đưa bé đi khám để bác sĩ xác định xem bé đau bụng vì nhóm nguyên nhân nào trước khi có quyết định cho bé xét nghiệm tìm HP hay không.

Khi nào thì cần cho trẻ đi tìm vi khuẩn HP?

Bác sĩ sẽ cho bé xét nghiệm khi: Trẻ có loét đường tiêu hóa phát hiện qua nội soi hay chụp Xquang cản quang; trẻ có bố mẹ, anh em ruột bị ung thư dạ dày; Trẻ có thiếu máu thiếu sắt đã điều trị đầy đủ theo phác đồ nhưng không đáp ứng và không tìm thấy nguyên nhân nào khác; Trẻ đau bụng mạn tính gợi ý do viêm loét dạ dày, tá tràng với các triệu chứng: Cơn đau kéo dài (trẻ ôm bụng khóc, tái nhợt, nằm im), đau liên quan tới bữa ăn (trước, sau ăn), kèm theo hay ợ, ói, rối loạn tiêu hóa kéo dài hay đau rõ vùng thượng vị; ung thư dạ dày giai đoạn đầu.

Các phương pháp tìm vi khuẩn HP

Các phương pháp xâm lấn (qua nội soi dạ dày): Sinh thiết làm mô bệnh học, test urease, nuôi cấy, PCR được chỉ định khi trẻ có gợi ý của bệnh viêm dạ dày - tá tràng. Thông qua nội soi bác sĩ sẽ lấy một phần niêm mạc dạ dày ở nhiều vị trí khác nhau để tìm vi khuẩn HP. Nhược điểm của phương pháp này là thường phải gây mê. Đây là điều mà phụ huynh lo lắng nhất, vì vậy hãy thảo luận kỹ với bác sĩ về chỉ định và phương pháp nội soi. Ưu điểm của phương pháp này là có thể trực tiếp quan sát niêm mạc thực quản, dạ dày, tá tràng để đánh giá có bị tổn thương hay không, tổn thương nặng hay nhẹ. Trong một số trường hợp phải nội soi để cấp cứu: chảy máu dạ dày - tá tràng chẳng hạn.

Các phương pháp không xâm lấn: Test hơi thở (thổi bóng hay thổi thẻ): Phương pháp này chỉ làm được ở trẻ lớn đã biết nuốt nguyên viên thuốc. Nguyên tắc của phương pháp này như sau: Bệnh nhân sẽ được cho uống một loại thuốc (viên nang hoặc dung dịch) có chứa đồng phân phóng xạ C-14 hoặc không phóng xạ là C-13. Trong vòng từ 10-30 phút có thể định lượng được lượng đồng vị carbon đánh dấu trong hơi thở và điều này chỉ ra rằng có sự tồn tại của Urease (enzyme mà vi khuẩn HP tiết ra để phân hủy Urea trong dạ dày và gây độc niêm mạc dạ dày) trong dạ dày và do đó nhận biết có sự hiện diện của vi khuẩn HP.

Tìm kháng nguyên HP trong phân, tìm kháng thể trong nước tiểu và nước bọt, tìm kháng thể trong huyết thanh (xét nghiệm máu). Mỗi phương pháp có độ đặc hiệu, độ nhạy khác nhau. Xét nghiệm máu chỉ dùng để nghiên cứu chứ không dùng để xác định tình trạng hiện tại và giúp cho điều trị.

Xét nghiệm phân và hơi thở nhằm xác định có hay không nhiễm HP ở thời điểm hiện tại và theo dõi kết quả điều trị diệt HP.

Sinh thiết dạ dày và các test hơi thở, phân… chỉ thực hiện khi ngừng tất cả các thuốc liên quan tới dạ dày (các thuốc giảm tiết acid ít nhất 2 tuần (nhóm PPI như omeprazole, esomeprazole…, các kháng sinh ít nhất 4 tuần) nếu không sẽ cho kết quả không chính xác (âm tính giả).

Khi nào cần điều trị HP?

Chỉ điều trị kháng sinh diệt HP trong những tình huống sau: Tất cả các trường hợp loét dạ dày, hành tá tràng (xác định qua nội soi) mà có HP (+); trẻ trước đây có loét dạ dày, hành tá tràng hiện nay không loét không đau nhưng có vi khuẩn HP (+) vẫn nên điều trị; viêm teo dạ dày kèm theo chuyển sản ruột; Trẻ có tổn thương viêm trên nội soi, HP (+) và có cha/mẹ bị loét hay ung thư dạ dày. Nếu không có tiền căn gia đình thì cân nhắc điều trị (bởi chỉ định này dễ bị lạm dụng nhất).

Điều trị nhiễm vi khuẩn H.pylori ở trẻ em: Còn nhiều bất cậpVi khuẩn HP-thủ phạm gây loét dạ dày.

Khi trẻ có dấu hiệu lâm sàng gợi ý viêm loét dạ dày, tá tràng, làm các test không xâm lấn (phân, hơi thở) dù có dương tính nhưng cần phải tiến hành nội soi chẩn đoán trước khi quyết định điều trị. Trên thực tế điều này khó vì không phải trẻ nào cũng soi được.

Đối với trẻ bị thiếu máu thiếu sắt và giảm tiểu cầu thì tự miễn kháng trị vi khuẩn HP.

Khi đã quyết định điều trị viêm dạ dày HP (+), con bạn sẽ phải uống rất nhiều thuốc trong thời gian dài, thường là 2-3 tháng. Trong đó 2 tuần đầu sẽ phải dùng tới 2 loại kháng sinh, 1 loại giảm tiết acid dịch dạ dày. Có nhiều phác đồ điều trị khác nhau tùy theo vùng và khả năng kháng thuốc của vi khuẩn.

Với các thuốc giảm tiết acid dịch vị như omeprazole, esomeprazole… ngoài tác dụng làm giảm độ acid trong dịch vị, nó có tác dụng phụ gây loãng xương nếu dùng thời gian dài. Tác dụng kiềm hóa dịch vị dẫn tới giảm khả năng bảo vệ của hàng rào dịch vị với cơ thể, vi khuẩn có thể sống sót vượt qua dạ dày gây bệnh, đặc biệt là viêm phổi ở trẻ em.

Việc sử dụng nhiều kháng sinh trong thời gian dài dễ gây các tác dụng phụ như loạn khuẩn đường ruột, tiềm ẩn nguy cơ kháng thuốc của các loài vi khuẩn. Do vậy, việc chẩn đoán và điều trị viêm dạ dày do HP phải hết sức cẩn thận và chỉ điều trị khi có đầy đủ các căn cứ, chứ không thể chỉ định xét nghiệm và điều trị tràn lan như hiện nay.

Một điều lưu ý đối với bệnh nhân là: Không phải cứ uống kháng sinh là sẽ diệt được HP. Bởi theo thời gian cùng với sự lạm dụng kháng sinh bừa bãi, HP ngày càng khó trị. Tỉ lệ HP kháng kháng sinh ngày càng cao. Điều này khiến cho các nhà lâm sàng phải tạo ra nhiều công thức tiệt trừ HP bằng cách phải dùng đến những loại kháng sinh mạnh hoặc phối hợp nhiều loại kháng sinh khác nhau.

Việc diệt trừ HP có thành công hay không còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Các yếu tố dẫn tới thất bại phải kể đến: Tình trạng kháng kháng sinh, tuân thủ điều trị và cơ địa chuyển hóa thuốc, đặc biệt ở trẻ em và bản thân vi khuẩn độc lực quá mạnh.

Ngoài ra, sau khi điều trị rồi thì vẫn có khả năng tái nhiễm HP. Với lối sinh hoạt của người dân Việt Nam thì khả năng tái nhiễm là khá cao. Theo thống kê cho thấy tại các nước đang phát triển, có tới 13% người lớn bị tái nhiễm, trẻ em là 2% trong vòng một năm.

BS. Trần Công